Sau khi ông Trần Xanh nỗ lực viết ý kiến gửi cho nhà xuất bản và lãnh đạo Cục xăng dầu vào ngày 10/2/1999 để vạch trần " Hiện tượng Trần Nhương", xem tại http://www.tranthicamthanh.blogspot.com/2014/10/ho-so-vu-ong-tran-xanh-ong-no-luc-au.html
Nhưng ông không nhận được sự phản hồi.
Năm 2001 ông Trần Xanh tiếp tục có ý kiến gửi lên cơ quan có trách nhiệm để ngăn chặn hiện tượng Trần Nhương trong xã hội, ý kiến mạnh mẽ hơn, rắn rỏi hơn trong việc yêu cầu các cơ quan có trách nhiệm quản lý được tác giả Trần Nhương cảm ơn là đã giúp đỡ tác giả hoàn thành tác phẩm như Hội nhà văn Việt Nam, Bộ văn hóa thông tin,... xử lý " Hiện tượng Trần Nhương" một cách cụ thể, nếu không ông Trần Xanh sẽ nhờ pháp luật can thiệp để bảo vệ sự thật. (xem tài liệu sau).
Sau đây là toàn bộ nội dung đơn đề nghị thứ 2 :
Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Độc lập- Tự do- hạnh
phúc
Kính gửi: - Ông Nguyễn Hữu Thọ - Trưởng Ban tư tưởng văn hóa trung ương
- Bộ văn hóa thông tin
- Hội nhà văn Việt Nam
Trong văn bản ngày 10/2/1999 gửi
ông giám đốc nhà xuất bản Quân đội nhân dân, đồng gửi ông Cục trưởng Cục Xăng-
dầu Tổng cục Hậu cần trình bày nhận xét quyển tiểu thuyết của Trần Nhương, sách
được in và các đại biểu gồm cán bộ cao
trung cấp trong quân đội và nhà nước đến dự lễ kỷ niệm 30 năm ngày truyền thống
ngành xăng dầu ( 24/8/1968 – 24/8/1998) đều được nhận làm quà tặng. Tôi đã vạch
rõ 4 sự kiện cơ bản mà tác giả xuyên tạc, nói sai theo hướng xấu của việc triển
khai công trình đường ống đầu tiên của ngành xăng dầu quân đội và một số điểm
nói không đúng về anh Đinh Đức Thiện mất từ năm 1987 cần có đôi lời minh oan.
Tôi có một câu hỏi dụng ý của tác
giả xuyên tạc những sự kiện cơ bản ấy có dụng ý gì , câu hỏi 2 năm qua tôi vẫn thấy bỏ ngõ chưa nghe
được ý kiến gì của tác giả, của nhà xuất bản quân đội nhân dân nơi in cuốn
sách, của Cục xăng dầu Tổng cục hậu cần là đơn vị phát hành cuốn sách ấy làm
quà biếu nhân dịp 30 năm ngày truyền thống ngành xăng dầu”
Nay tôi xin trình bày tiếp tác giả
đã dựng nên nhân vật Cù Văn Thao trưởng
ban kỹ thuật công trường X42 để nói xấu tôi về chỉ đạo đảm bảo kỹ thuật
công trình sau đó có một số đề nghị.
I.
Nói
sai về tôi như thế nào, những gì và tại sao lại là như thế nói xấu, nói sai:
1.
Trước hết
hư cấu “ Cù Văn Thao” trưởng ban kỹ thuật công trường để chỉ tôi mà không nêu
tên tôi.
Tôi là nguyên chỉ huy trưởng công trường thủy lợi O1
thành lập để triển khai đường ống tháng 1/1968, tháng 4/1968 trước lúc đi khảo
sát đường ống ở 559 đề nghị xin làm phó chỉ huy công trường phụ trách kỹ thuật
vì đây là công trình tuyến, chỉ đạo kỹ thuật phải sát dưới, được Cục chấp nhận.
Sau đó công trường thủy lợi O1 đổi thành công trường 18( xem lịch sử ngành xăng
dầu tập I ( 1945-1975). ở trang 18 tác giả bịa chuyện Phan Tử Quang đọc quyết đinh
thành lập ban chỉ huy công trường không có tên tôi ( Trần Xanh ), tiếp trang 45
dòng 31 tác giả bịa chuyện Mai Phúc nói một cách khinh miệt gọi tên tôi không họ, không chức danh nói sai
nơi đào tạo ở trong câu: “ Về kỹ thuật các đồng chí Xanh, Hòa, Kỳ ,…sẽ nói rõ,
nhưng cũng có ý nói là đứng đầu nhóm kỹ thuật để sau đưa nhân vật hư cấu Cù Văn
Thao Trưởng Ban kỹ thuật (trang 31, 2 dòng cuối) và không nhắc tên tôi nữa thì
ai cũng hiểu Cù Văn Thao là tôi. Đã ném đá dấu tay song lại phải ném trúng.
2.
Điểm nói
xấu thứ nhất:
Công trường triển khai không có khảo sát, không thiết kế,
không biện pháp thi công từ đó làm chậm,
phải làm liều nên làm hỏng, may có kỹ sư trẻ tìm ra giải pháp và chỉ huy
trưởng “quyết tâm” nên mới cứu được công trường bi quan chán nản,….và cuối cùng
hoàn thành đúng thời gian , còn trưởng ban kỹ thuật Cù Văn Thao thì chẳng hiểu
biết và có trách nhiệm gì trong đảm bảo kỹ thuật triển khai X42
Dẫn chứng nói xấu:
-
Trang 52, dòng 22 tác giả viết
“ thời gian cứ
vùn vụt trôi qua, gần nửa tháng rồi mà khảo sát thực địa vẫn chưa xong “
-
Trang 53, dòng 26 “ Ban chỉ huy công trường 18
bàn bạc chưa tìm được cách nào đưa ống qua sông
-
Trang 5.., dòng 3: Đội vượt sông chưa tìm được
cách nào đưa ống qua sông
-
Trang 54 lại có câu ở dòng 1, Mai Phúc nói “ Các
bố cứ dựa vào cột cờ dục rối lên”
-
Trang 56 từ dòng 17 đến dòng 22, Mai Văn Phúc hỏi
Cù Văn Thao: “ Ban kỹ thuật đã tìm được phương án vươt sông chưa” ? Báo cáo
chúng tôi phân công hai đồng chí Nghiêm và Đăng đi nghiên cứu thực địa….một đồng
chí ốm, một đồng chí đang đề xuất phương án
-
Trang 18 từ dòng
6 tác giả viết “chỉ huy trưởng
Mai Phúc sốt ruột vì thời gian 3 tháng ấn định cho công trường sắp hết….nhưng
chỉ hơn 300m vượt sông không qua được ….thì số đường ống đã lắp……cũng chả có ý
nghĩa gì và liều ra lệnh: khẩn trương lắp
nối chỉ chiều dài qua sông và tiến hành nối cáp khi kéo và việc kéo ống thất bại!
-
Sau đó nhờ ý kiến của Hoàng Nghiềm nên mới kéo
thành công, Cù Văn Thao có sáng kiến đánh mìn dọn lòng sông, tự mình hướng dẫn
buộc bộc phá…..và sau đó được phân công đốt dây cháy chậm! ( trang 31 và trang
32)
-
Trang 164, going 1,2 viết: các trạm chú ý hôm nay là ngày 12/9/1968 , công trường
chính thức hoàn thành, tôi ra lệnh chính thức vận hành.
Điểm nói xấu thứ
2: Trưởng Ban kỹ thuật Cù Văn Thao tác
phong nhút nhát, ngu ngơ, không làm đúng chức trách
Dẫn chứng: Chỉ nói 3 điểm bỏ qua nhiều điểm khác
-
Làm trực ban khi
địch đánh vào đơn vi cấp dưới thì
“ hốt hoảng” ( trang 58 dòng 3)
-
Ra hiện trường lúc thi công vươt sông thì không
làm đúng chức trách chỉ đạo kỹ thuật lại làm những điều vu vơ , trang 105, dòng
3 viết: “ Cù Văn Thao cầm dây cáp “ như”
kéo thuê. Trang 139, dòng 3 viết: Cù Văn Thao buộc thêm 1 sợi dây thép để khỏi
bật chốt
-
Tác giả hư cấu Mai Phúc là một cán bộ chỉ huy
chung chứ không hề học hoặc tham gia thiết kế công trình, tất nhiên phạm nhiều
sai sót nhưng Cù Văn Thao chỉ “ ….cầm viên phấn ghi áp suất lên bảng con số đã
vẽ ra từ trước mà không nhắc nhở chỉ huy về
nhiều thiếu sót, đây chỉ nêu vài ví dụ.
-
Chỉ huy mới ra lệnh vận hành đã hỏi:
Áp lực bao nhiêu?
35
Tốt (trang 160, 161)
Nắm áp suât bơm là yếu tố quan trọng phải có tri thức
tổng hợp về vận hành đường ống mới phán xét đúng tình huống – Hỏi áp lực, nhất
thiết phải biết áp lực vào và áp lực ra. ở X42 áp lực vào không thể cao hơn 5-7
atm, còn áp lực ra thì tùy thiết kế mà định tối đa là bao nhiêu chứ không phải
máy nào cũng chạy đến 35 atm là tốt, vả lại mới mở máy đã có áp lực 35 là có vấn
đề hoặc van chưa mở, hoặc tắc ống, cần
phải hỏi lại để đội đi theo “ tuyến dẫn nước” báo cáo, khen tốt “ là hàm hồ.
Trang 161, dòng 24 viết: Phó chính ủy trung Dương Văn
Tường cầm máy:
“ a lô, trạm 4 đâu, trạm 3 bắt đầu bơm….. Với đoạn đường
15km, tốc độ bơm đúng công suất thì khoảng 20 phút là đến”
Cù Văn Thao không nhắc bơm nước là đi thử độ kín và
làm sạch ống, cho nên việc có đội đi
quan sát bơm nước để quan sát dò dỉ, để lúc xả nước ở các van trung gian ( như ở
tuyến phụ vượt sông)….để quan sát rác bẩn, để khi tuyến bị tắc do rác bẩn thì xử lý ( lúc bị tắc áp đột ngột lên cao)
người chỉ huy vận hành phán đoán mới tắt, ngừng bơm và cho xử lý, cho nên bơm nước
tới mục đích như trên là chính thì phải
từ từ chứ không phải bơm hết công suất, vả lại lưu lương bơm nước tối đa
là 30m3 /giờ thì đến bơm thông lần đầu khoảng cách 15 km cũng phải
3,5 tiếng đồng hồ chứ không phải là chỉ 20 phút vì: 1 m ống có V = 7 lít nước,
15 km = 15.000m × 7 = 105000L =105m3 , t= 105/30 = 3,5 h.
Như vậy chỉ huy vận hành cứ lệnh ẩu, trưởng ban kỹ thuật
không đóng góp ý kiến gì, nếu thực tế xảy ra như vậy rất nguy hiểm: May mà ngày
25/7/1968 tôi chỉ huy vận hành không để xảy ra như vậy
3. Lấy gì để chứng minh các dẫn chứng nói trên
nhất là trao đổi giữa Mai Phúc và Cù Văn Thao là bịa đặt theo hướng nói xấu.
a.
Chỉ lấy 2 mốc thời gian:
Sau khi đến công trường 14/6/1968 thì: Ngày vượt
sông 22/6/1968 và chỉ huy kéo ống 1 lần là xong, ngày 25/7/1968 vận hành thử bằng
nước, ngày 1/8/1968 vận hành xăng, làm tuyến rẽ TF5 vào Đức Lạc để đóng xăng
vào cano chở theo sông Ngàn Trươi vào Chu Lễ
Chỉ những chuyện đặt ra: nửa tháng chưa khảo sát thực
địa, gần 3 tháng chưa có phương án vượt sông, sau phải vươt liều rồi thất bại,
lại nhờ sáng kiến của Nghiềm mới vượt sông thành công, đúng 12/9 Mai Phúc ra lệnh
vận hành.
Chỉ mấy mốc thời gian đã nêu trên đã thấy bịa đặt của tác
giả hết sức trắng trợn.
Cũng cần nói thêm nếu khoảng 10/9/1968 mới vượt sông,
trong lúc đó ở dưới sông đã có tuyến lắp đặt xong do 2 tháng 20 ngày trước, đã
vận hành xăng ổn định hơn 1 tháng trước thì lúc đó mới thi công mà Cù Văn Thao
còn cho nổ mìn dọn sông thì phá hủy mất 2 tuyến đã vượt, chưa nói xăng đang vận
hành sẽ bốc cháy, sông Lam từ Vạn Rú xuống
hạ lưu sẽ thành một biển lửa, máy bay địch sẽ đến đánh tan hoang khu công trường
và thảm họa là không thể nói hết.
Đó không phải là phóng đại mà sự việc có diến biến
có ngày tháng cụ thể trong lịch sử ngành
Xăng Dầu và có thời gian rõ ràng trong cuốn “ dòng sông không có đôi bờ” thì tất
yếu là dẫn tới như vậy
Lại nói từ 1/8/1968 lúc bơm xăng thông tuyến X42 thì
ban chỉ huy đa số về Hà Nội để báo cáo thành tích và đón, triển khai quyết định
thành lập Cục Xăng dầu ( 24-8-1968) còn tôi sau lúc tổng kết kỹ thuật, hoàn chỉnh
tuyến , làm tuyến TF5, 10/8/1968 theo điện Hà Nội vào dẫn đoàn khảo sát theo
tuyến Đức Thọ, lần này là lần thứ 3 bỏ 2
tuyến đã khảo sát là tuyến đi Chu Lễ hướng đường 15 và đường giao liên đi theo hướng phía Tây Hà
Tĩnh dựa vào đường Lâm Nghiệp qua Đức Bồng, Truông Cái, Hương Thọ và Hương Bình
báo cáo anh Lê Quang Đạo tư lênh đoàn 500 lúc đó mới thành lập, sau đó đi khảo sát xác định tuyến Hương
Tranh đi Xóm Cục Khe Ve để nối với tuyến Mụ Giạ - Na tong đã khảo sát từ tháng
4/1968 và đã được anh Thiện thông qua, giữa tháng 9 mới gặp đoàn ở Hương Trạch,
đi duyệt tuyến vừa khảo sát và sau đó lên đóng ở Km 40 đường 12 ( cổng trời) để
thi công tuyến vượt đèo Mụ Giạ.
Nhắc lại như vậy để thấy mỗi người mỗi ngã, tuyến X42 đã vận hành rồi, làm
gì có gặp nhau và đối thoại vượt sông nữa.
Các việc ấy đã tổng kết trong lịch sử ngành xăng dầu từ
năm 1993, Trần Nhương viết cuốn sách năm 1995, làm sao lại có ý viết xuyên tạc
như vậy? Tất nhiên tác giả cố ý đặt ra chuyện vượt sông chậm, do không có
phương án kỹ thuật, trên thì đôn đốc, dưới thì phản ứng nói trên “ dựa cột cờ”
để thúc, công trường thì hoang mang, mất ý chí, đào ngũ, đoàn trưởng thì làm liều,
cán bộ kỹ thuât cãi nhau, chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần phải xuống kiểm tra công
trường thì đối phó bằng cách dẫn thủ trưởng đi vòng vo, bố trí hằng trăm gái đẹp
vẫy chào, lo nồi thịt chó để “ hãm” tính căng thẳng…..trong lúc đó trưởng ban kỹ
thuật thì ngu ngơ, vô trách nhiệm, kỹ sư cũng sinh ra lắm chuyện, có kỹ sư đi “
hiếp dâm” ban ngày ngay trên giếng làng (xem trang 72 dòng cuối).
Sự thực thì công trường dù bị địch đánh phá ác liệt
nhưng cùng dân quân, cán bộ địa phương đoàn kết lao động, mọi việc tiến hành
theo đúng thiết kế, tiến độ thì vượt mức, điện
mừng từ Bộ, từ Tổng cụ Hậu cần liên tiếp gửi đến động viên, hà cớ gì tác
giả phải bày ra một bức tranh ảm đạm như vậy?
Đó là vì tác giả dựa trên lập luận sau đây: “ trang
99, dòng 14 sau khi nêu Nghiềm như một Ga- li – lê đến, trang 164 từ dòng 12 đến dòng 15 đưa ra lời
nói của Nghiềm “ công trình này là một ý đồ liều lĩnh của người chỉ huy, thế ra
trong chiến tranh mọi người phải mạo hiểm, có lúc điếc không sợ súng mà lại
thành công”.
Lập luận tổng quát ấy được phát biểu lên cho nền tảng
cuốn sách chẳng những xúc phạm các đồng chí lãnh đạo chính phủ và quân đội
trong công tác chỉ đạo triển khai mạng đường ống bảo đảm xăng dầu cho cả cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lúc đầu ưu tiên triển khai cho tuyến vận tải 559
sau mở rộng ra toàn quốc và vượt ra biên giới Việt-Trung phục vụ cho nhu cầu
xây dựng kinh tế.
Đây là một công việc đồ sộ,nhiều mặt, phải huy động sức
mạnh dân tộc , phải có quyết tâm rất cao và phải có biện pháp nhìn xa trông rộng
ở tầm vĩ mô mới thực hiện thành công được. Trong công tác triển khai tôi thấy
các đồng chí mà tôi được nghe một phần lời phát biểu về chủ trương vài giải
pháp vĩ mô ấy như các đồng chí Đỗ Mười, Đinh Đức Thiện, Trần Đại Nghĩa, cả đ/c Vũ Văn Cẩn, Trần Thọ lãnh đạo Tổng cục
hậu cần, các đ/c Hoàng Văn Thái, Vũ Xuân Chiêm ở Tổng cục hậu cần tiền phương,
đ/c Đồng Sỹ Nguyên đoàn 559, đ/c Hoàng
Điềm Bộ tham mưu tổng cục Hậu cần, đ/c Hoàng Đình Phu Viện trưởng viện kỹ thuật
quân sự đều chỉ đạo rất chặt chẽ công tác triển khai, kể cả nghe và giải quyết
thông qua các biện pháp qui hoạch, khảo sát, thiết kế các giải pháp thi công, vận
hành, các công tác chính trị tư tưởng và bảo vệ công trình, không có sự chỉ đạo
quyết tâm và cụ thể đó thì dù có cán bộ kỹ thuật giỏi thì cũng không thể làm
nên trò trống gì. Đây không phải là lúc trình bày các vấn đề đó vì muốn tổng kết
phải tham khảo một kho tư liệu đồ sộ của nhà nước, của quân đội, của tổng cục hậu
cần và của các địa phương.
Tôi còn nhớ rõ dù bận trăm công ngàn việc, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp cũng đã chỉ thị cho đồng chí Bùi Đình Kế phó văn phòng Bộ Quốc
Phòng gọi tôi lên báo cáo cho ác vị tướng ở Bộ nghe về công tác kỹ thuật đường ống.
Riêng cá nhân tôi cùng Nguyễn Đình Hòa là học sinh con
cán bộ Miền Nam ra tập kết được Đảng và quân đội cử đi học về đảm bảo xăng dầu
tổng cộng 9 năm trong đó có 2 năm ở trường văn hóa quân đội ( tôi có làm cán bộ
khung 1 năm cho trường), 4 năm học ở Học viện Hậu cần Vận tải Hồng quân Xô viết,
3 năm ở học viện công trình hậu cần giải phóng
Trung Quốc, trong 3 năm sau cùng Mỹ đã mở chiến tranh cục bộ ở Miền Nam,
chúng tôi quyết tâm học tốt để về phục vụ quân đội, đặc biệt lúc đó chuyên gia
Liên Xô đã sang Trung Quốc mang 1 bộ đường ống dã chiến huấn luyện chu đáo cho
các giáo viên Trung Quốc, các giáo viên Trung Quốc lúc đó rất coi trọng việc cán bộ Việt Nam, cả trường lúc đó bước
vào đại cách mạng văn hóa, chỉ có giáo viên dạy Việt Nam là không phải làm cách
mạng văn hóa nên họ rất phấn khởi bồi dưỡng cho chúng tôi, nhất là theo chỉ thị
của anh Thiện, Cục cán bộ đã làm việc với phía Trung Quốc tôi và Nguyễn Đình
Hòa tập trung học sâu vào 2 môn là thiết kế và thi công đường ống dã chiến và
thiết kế thi công quản lý kho nhiên liệu quân dụng. Ngoài ra một số đồng chí
khác học về đảm bảo nhiên liệu cho không quân, hai đồng chí Lê Tứ Kỳ và Bế Hùng
cũng về nước sau 1 năm và cùng vào tham gia vào ban kỹ thuật công trường 18.
Tháng 5/ 1967 về nước là đồng chí Đinh Đức Thiện gọi
tôi đến và báo cáo ngay về kết quả học tập và vì là thủ trưởng cũ lúc ở Cục Vận
tải từ 1951, đ/c hỏi thẳng : “ thế học rồi chuẩn bị mà làm, có làm được
không?”. Tất nhiên là đã học thì quyết tâm làm, sau đó đồng chí đi Liên Xô, khoảng
mùa thu 1967 về nói lại đã xin nguyên soái…. (tôi không nhớ tên) phụ trách Tổng
cục Hậu cần Hồng quân cho 2 bộ đường ống dã chiến, chuẩn bị tiếp nhận và triển
khai, có cả chuyên gia Liên Xô sang hướng dẫn kỹ thuật.
Chúng tôi thành
lập ban tiếp nhận tháng 1/1968 cục quản lý xe thành lập công trường thủy lợi Ô
1 do tôi làm chỉ huy trưởng, sau có đồng chí Đặng Thế Hải đến cùng bàn bạc triển
khai. Công việc lúc đó là đã biết chắc đường ống sẽ triển khai đường ống xăng dầu
tương đối thường xuyên nên tập trung nghiên cứu các vấn đề:
-
Nguyên tắc chọn tuyến trong điều kiện địch làm
chủ trên không đánh tập trung vào các tuyến vận chuyển và khu dân cư.
-
Nguyên tắc ngụy trang bằng cách chôn tuyến dưới
lòng đất, không để nổi như điều lệnh Hồng Quân.
-
Việc làm sạch ống và thử độ kín tuyến ống trước
khi vận hành xăng là rất quan trọng, Liên Xô trong thiết bị toàn bộ đường ống
dã chiến dùng máy nén khí nén con thoi làm cái việc trên là rất nhanh và ưu việt
đảm bảo chất lượng xăng lúc bơm song cần có con thoi cao su có chất phóng xạ ở
đầu và có máy dò phóng xạ để xác minh vị trí con thoi bị tắc lúc lấy ra, nhưng
bạn chưa có chủ trương xuất khẩu chất phóng xạ nên không cấp chất ấy cho ta, Viện
hạt nhân cũng chưa nghiên cứu sản xuất được nên sau khi bàn bạc kỹ với Viện kỹ
thuật quân sự do anh Hoàng Đình Phu chủ trì, quyết tâm dùng nước sạch làm sạch
tuyến và thử độ kín trước lúc bơm xăng thay cho phương pháp trên vì thiếu thiết
bị.
-
Về vượt sông: Căn cứ tình hình sông Việt Nam do
địa hình bề ngang đất nước hẹp nên các vùng trung du trở xuống sông chịu ảnh hưởng
của thủy triều nên phải tận dụng đặc trưng đó để lúc nước triều lên, tùy vị trí thao tác mà chọn ngày thích hợp, tốc
độ nước chảy mặt sông được trung hòa chỉ ở mức tối thiểu để vượt nổi, vừa nhanh
chóng vừa an toàn cho nên phải cùng Nha khí tượng thủy văn bàn bạc xin các số
liệu về tốc độ nước các con sông trên các vị trí quan trắc được ở các ngày
trong từng tháng theo âm lịch.
Đến tháng 3/1968
thì các nguyên tắc ấy đã được xác định, các số liệu đã được sưu tầm và báo cáo
tham mưu trưởng hậu cần ( anh Hoàng Điền) thông qua, anh Đinh Đức Thiện chuẩn y.
Đầu tháng 4/1968
anh Đinh Đức Thiện chỉ thị: Do ta đấu tranh có thể địch xuống thang ngừng ném
bom từ vĩ tuyến 18 trở ra để vào bàn đàm phán song sẽ đánh ác liệt đoàn 559 nhất
là chặn đứng cổ họng tiếp tế cho tuyến 559 và Miền Nam là đèo Mụ Giạ nên hạ quyết
tâm triển khai 2 bộ đường ống ưu tiên đoạn Mụ Giạ - Lùm Bùm.
Ngày 12/4/1968
tôi dẫn đoàn khảo sát thiết kế đi đến Lùm Bùm thì được điện quay ra Tổng cục tiền
phương báo cáo, ngày 1/5/1968 được tin địch xuống thang ném bom từ vĩ tuyến 20
trở ra, ném bom ác liệt vùng cán xong Việt Nam, nhất là dọc 2 con sông Lam và
sông La nên phải gấp rút tuyến Nam Đàn – Đức Thọ.
Trong suốt tháng
5/1968 tiến hành khảo sát xác định tuyến cụ thể, làm thiết kế kỹ thuật và tính
ra các yếu tố: vật tư, nhân lực,các thiết
bị bơm, bể chứa, thông tin,… để xin huy động, trong đó trọng tâm là thiết kế và
biện pháp vượt sông Vạn Rú, ngày 6/8/1968 thiết kế công trình X42 được thông
qua tổng thể bởi anh Thiện và theo chỉ thị của anh Thiện sang thông qua cụ thể
với anh Trần Đại Nghĩa có anh Hoàng Điền dẫn đi.
Có 2 vấn đề đáng
chú ý trong thiết kế vượt sông ở Vạn Rú:
-
Một là phải chọn giải pháp kéo chìm: Đây là trường
hợp duy nhất và lại thực hiện ở công trình thí điểm đầu tiên, đây là thể hiện
tinh thần trách nhiệm cao đối với chiến trường, vì ngày 12/6/1968 hành quân thì
đã là 17/5 âm lịch Mậu Thân, chuẩn bị tích cực vật tư, thợ lắp ráp thiết bị thi
công, thợ lặn sâu, bố trí thông tin, dây
cáp, tời, xe tải gát 63…cũng tính đến 22/6/1968 là xong tức là ngày 27/5 âm lịch,
ở đấy tốc độ nước chảy lớn, không thể đợi đến triều cường 10/7/1968 tức là 15/6
âm lịch Mậu Thân được, nên quyết định cho vượt chìm để đến 1/7/1968 lúc có
trăng non, đội vượt sông sang vươt sông La bằng phương pháp vượt nổi, vì khu vực
xóm 8 Trường Sơn Châu Phong tốc độ nước chảy vừa, trăng non nước lên vừa là vượt
nổi thuận lợi, sau đó ngày 10/7/1968 quay lại vượt đò Vạn Rú (tuyến phụ) ở thượng
lưu tuyến chính đúng ngày 15/6 Mậu Thân, triều cường là được, về sau đúng thực
hiện như dự kiến.
-
Hai là lúc tính phương tiện vượt chỉ cần 1-2 xe
gát 63 công suất 57 mã lực là được (lúc kéo kể cả khởi động) chỉ cần 46 mã lực,
đã báo cáo anh Phan Tử Quang, anh Phan Tử Quang dự kiến đêm 21/6/1968 có xe anh
Tài chở vật tư vào công trường sẽ gửi lại 2 xe gát (1 xe dự phòng) song đêm 21/6/1968 địch đánh thị xã Nam Đàn ác liệt xe không qua
được, anh Quang sáng 21/6/1968 tin tôi có một xe Rumani cần bao nhiêu người kéo
hỗ trợ là được.
Tôi nói cần quyết
tâm vượt, xe Rumani công suất 22 mã lực, cần 50 người (tính 2 người một mã lực)
sau đó tôi sang bờ Bắc để chỉ huy việc lắp đặt cho thật bảo đảm, phối hợp với bờ
Nam qua điện thoại để lắp ống khi xe lùi lại, để lúc kéo đến phía gần bờ Nam nếu
có vướng mắc đá nhỏ thì báo thợ lặn và
dân công nâng cút T lên cho bờ Nam tiếp tục kéo.
Sáng 23/6/1968
tôi đôn đốc lắp ráp nối tuyến dưới sông và tuyến trên bờ xong lại cho chôn lấp
ngụy trang, sang bờ Nam thấy kỹ sư Võ Thư Thành đang đợi thợ và dân công đến lắp
tuyến và ngụy trang như bờ Bắc, tôi còn
bàn bạc cụ thể thêm với đồng chí Vũ Thư Thành. Tác giả nói tôi chạy loanh
quanh, đi “nhứ” cáp, đi đóng “ chốt” dây cáp vào xe là không đúng….
Tất nhiên về
sau có đồng chí cho kéo bằng nhân lực là thượng sách, thật ra chỉ là giải pháp
tình thế.
Còn về thao tác
trạm bơm và công tác kỹ thuật lắp, dỡ, bảo quản ống cũng như tính năng thiết bị
đồng bộ bộ đường ống dã chiến thì đã có 2 chuyên gia Liên Xô mở lớp huấn luyện.
Điều đó nói lên công tác đảm bảo kỹ thuật cho triển khai đường ống dã chiến đầu
tiên của quân đội nói chung và của công trình đầu mối X42 đã được thực hiện một
cách khẩn trương và có chất lượng cao, làm với tinh thần trách nhiệm cao vì sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước, tháng 5/1969 lúc tổng kết công trường được nhà nước
thưởng 63 huân chương, riêng tôi cũng được thưởng huân chương chiến công hạng
hai.
Vậy qua hai tài
liệu nói ơ trang 1 trên đây có căn cứ khẳng định Trần Nhương viết “dòng sông
không có đôi bờ” là xuyên tạc nói xấu các sự kiện lịch sử của công trình xây dựng
đường ống đầu tiên, trọng tâm là nói xấu công tác bảo đảm kỹ thuật công trình, đồng thời lập luận “ Công trình này là
một ý đồ liều lĩnh, phiêu lưu của người chỉ huy” là hoàn toàn vô căn cứ.
Xây dựng đường ống
là công tác cách mạng, một tác phẩm xuyên tạc và nói sai, nói xấu về công trình
ấy cũng như những cán bộ chủ chốt đã có đóng góp lớn cho thắng lợi công trình
thì tác phẩm văn học đó lại không phải là “ phản động” cách mạng chăng? Trần
Nhương không phải là nhà văn phản động chăng? Đây không phải là khuyết điểm mà
là tội ác vì nó làm cho người đọc hiểu sai về lịch sử ngành xăng dầu, sách in hằng
ngàn cuốn, có khi lại làm cho những người nước ngoài muốn tìm hiểu về sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước của chúng ta cũng hiểu lầm về những chiến công như xây dựng
đường hệ thống đường ống dẫn xăng đảm bảo thắng lợi cho cuộc chiến đấu chống Mỹ
cứu nước, một kỳ tích hiện nay là “ vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử chiến tranh cận đại và hiện
đại.
Tạp chí cộng sản
số 482, trong bài “ sự lựa chọn giá trị con người Việt Nam” có đoạn tác giả
Dương Vũ đã viết rất đúng là “ Vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật
chất, một tuyến đường dọc dãy Trường Sơn ( cả sườn Đông và sườn Tây) dài 16.700
Km, một hệ thống dẫn xăng từ miền Bắc vào miền Đông Nam Bộ dài 1.311 Km có lẽ
đã quá đủ để dựng một tượng đài hoành tráng về trí tuệ và lòng dũng cảm của người
Việt Nam trong thế kỷ 20 rồi”
Nếu tính cả các
đường ống xây dựng trên miền Bắc giúp Lào thì chiều dài tổng số 5000 km – (Xem
đại thắng mùa Xuân)
Vạn sự khởi đầu
nan, công trình X42 là công trình đầu tiên, tiến hành trong chiến tranh phá hoại
cực kỳ ác liệt của đế quốc Mỹ, đã được thiết kế thi công đảm bảo chất lượng,
vươt thời gian, nhờ đó rút được các tiêu chuẩn kỹ thuật và kinh nghiệm khảo
sát, thiết kế thi công tuyến ống đầu tiên dài 200 km, sau đó phía Nam kéo dài
1.311 km, phiá Bắc xây dựng tiếp 3 con đường ống thành một hệ thống hoàn chỉnh
tiếp nhận xăng dầu cá tân Trạm giang ( Quảng châu loan) Ninh Minh ( Bằng Tường)
khi địch đánh phá lại miền Bắc, ném bom từ trường phong tỏa đường biển, giải
quyết đầy đủ nhu cầu xăng dầu cho chiến đấu và xây dựng kinh tế và giúp bạn Lào
Vậy Trần Nhương
lợi dụng tự do sáng tác để nói sai, nói xấu các sự kiện và con người trong công
cuộc xây dựng công trình đầu tiên ấy làm gì, nhất là khi viết đã biết sự tham
gia công cuộc ấy, sự nghiệp ấy từ đầu đến cuối há lại không phải là một nhà văn
không phải đạo sống, đạo đức, chính đạo mà là một nhà văn tài “ đạo chích, đạo
tặc, vô đạo” sao?
II.
Đề
nghị:
1. Ông chủ tịch ban chấp hành trung ương hội
nhà văn Việt Nam sau lúc đọc 2 văn bản này và tác phẩm “ dòng sông không có đôi
bờ” của Trần Nhương, đánh giá tội lỗi vu khống xuyên tạc nói xấu truyền thống của
một mặt công tác của quân đội và một cán bộ quân đội và đối chiếu tôn chỉ, mục
đích, điều lệ của hội nhà văn Việt Nam mà yêu cầu Trần Nhương làm kiểm thảo và
tự xác định kỷ luật thích đáng.
2. Cuối
năm 1998, nhân dịp đi viếng ông Hồ Viết Thắng tôi có gặp ông Mai Trọng
Phước đoàn trưởng đoàn công trình 18 ( tác giả gọi là Mai Phúc) hỏi sao lại có
chuyện Trần Nhương xuyên tạc, nói sai, nói xấu việc và người trong tác phẩm
trên thì ông Phước trả lời nguyên văn
như sau: “ Đào Xuân Nghiêm ( tác giả gọi là Nghiễm) hiện đang công tác ở Cục
Xăng Dầu – TX ) đã mua Trần Nhương, cấp tiền cho Trần Nhương viết và in sách,
bao tiêu thụ sách”. Việc đó do Cục xăng dầu, Trần Nhương khẳng định, riêng tôi
nhận định có một nhóm ít người đã cùng Trần Nhương soạn thảo ra kịch bản xuyên
tạc, nó xấu, nói sai về sự kiện và con người triển khai X42 với mục đích xấu xa
nào đó.
Đề nghị ông Cục
trưởng Cục xăng dầu Tổng cục hậu cần làm rõ việc đó, điểm danh rõ để cho hàng
ngũ cán bộ xăng dầu đang công tác hay đã về hưu được trong sạch, đó cũng là
cách giữ gìn đạo đức truyền thống của ngành.
Đồng thời đề
nghị cho biết lí do tại sao Cục lại dùng quyển sách nói xấu nói sai về Cục mình
về ngành mình cả về sự kiện và con người để làm quà biếu cho các đại biểu dự lễ
kỷ niệm 30 năm ngày truyền thống ngành
xăng dầu (24/6/1968 – 24/6/1998) tại bảo
tang Hồ Chí Minh trong đó đại biểu cao cấp nhất là thượng tướng Nguyễn Trọng
Xuyên, ủy viên ban cán sự quân ủy Trung ương, thứ trưởng bộ Quốc phòng.
3. Đề nghị các lãnh đạo công tác tư tưởng văn
hóa- tư tưởng của đảng và nhà nước cho rút kinh nghiệm về một hiện tượng theo
tôi là cực kỳ tiêu cực như đã trình bày trên về công tác tổng kết 30 năm chiến
tranh là một công tác hết sức đồ sộ, phải huy động nhiều loại hình công tác,
văn hóa và những văn nghệ sỹ, nhà khoa học để làm và lưu lại di sản cực kỳ quí
giá của dân tộc cho muôn đời con cháu về sau, song tổng kết lịch sử bất cứ dưới
dạng nào cũng đều phải trung thực, tôn trọng tiêu chí “ Chân, Thiện, Mỹ”, tránh
nói sai, trắng đen lẫn lộn, có thế mới rút ra được bài học quí giá cho dân tộc.
Hiện tượng “Trần
Nhương” như đã trình bày ở trên, mong các vị lưu ý vì tôi đã về hưu không nắm
được toàn bộ các công tác tổng kết ấy, song làm như Trần Nhương thì rồi như tôi
đã nói, nếu phát triển rộng rãi thì dân tộc ta sẽ gặp nạn Đại Hồng Thủy.
Cũng đề nghị
lãnh đạo Hội văn nghệ Việt Nam, Bộ văn hóa thông tin, Nhà xuất bản quân đội
nhân dân Việt Nam, Cục xăng dầu tổng cục Hậu cần….là những cơ quan được Trần
Nhương trong lời tác giả ở trang 5 đầu cuốn sách có ghi là “…..đã hết lòng giúp
đỡ cho tôi (T.N) viết cuốn sách nhỏ này” cũng cần nên kiểm tra lại vì sao lại
giúp đỡ viết một cuốn sách mà từ đầu đến
cuối là xuyên tạc và nói sai sự thật.
Lúc đọc xong cuốn sách sau ngày được tặng
tôi có hỏi đồng chí Hà Văn Sỹ phó Cục trưởng Cục xăng dầu vì sao tặng 1 cuốn
sách “bôi nhọ” ngành chính trong ngày truyền thống ngành thì được đồng chí Hà
Văn Sỹ nói thêm: “ Thế mà Hội nhà văn Việt Nam định xét tặng giải thưởng cuốn
sách xuất sắc về loại tiểu thuyết lịch sử viết về đề tài chống Mỹ cứu nước giai
đoạn 1975 – 2000.
Tôi không thể biết có
đúng không?, nếu đúng thì quả là cơn “ Đại Hồng Thủy đã xuất hiện”. Nếu đúng
thì cần nhanh chóng xem xét các phương pháp đánh giá tiểu thuyết lịch sử cũng
như con người tham gia bình chọn phải là người như thế nào?
Còn bản thân
tôi tuy bị Trần Nhương xúc phạm sâu sắc, song vì khi giao việc 32 năm về trước
anh Đinh Đức Thiện có dặn là phải rất “ cảnh giác, khiêm tốn và đoàn kết” nên
tôi vẫn bình tĩnh, sau gần 2 năm phản ánh văn bản thứ nhất phát hiện những sự
kiện cơ bản bị xuyên tạc nói xấu trong cuốn sách lên Ban giám đốc nhà xuất bản
Quân Đội nhân dân nhưng không thấy hồi âm gì, nay tôi phải thành thực trình bày
thêm các khía cạnh khác của cuốn sách và các đề nghị như trên, mong chờ đợi sự
giải đáp.
Cũng xin nói
thêm tôi và Trần Nhương thuộc thế hệ khác nhau, nay tôi đã 75 tuổi, chưa hề gặp
Trần Nhương, chắc chắn trong đời sống bình thường chẳng có va chạm gì, tất cả ý
kiến đều trên cơ sở cuốn sách nêu ra đối chiếu với việc mình và đồng đội đã
làm, lịch sử chính thức ngành xăng dầu đã ghi lại, rất mong chờ ý kiến của các
cấp đã nêu.
Tất nhiên trong
tương lai nếu không giải tỏa được các thắc mắc đã nêu thì cũng xin phép nhờ pháp luật can thiệp để bảo vệ danh dự cho
sự nghiệp chung mà tôi đã phục vụ cũng như nhân phẩm cá nhân bị xúc phạm.
|
Tham khảo:
http://www.tranthicamthanh.blogspot.com/2014/10/ho-so-vu-ong-tran-xanh-ong-no-luc-au.html
http://tranthicamthanh.blogspot.com/2014/10/chi-vi-bo-toi-muon-uoc-song-trong-su.html.
Sau đây là bộ ảnh chụp toàn bộ đơn đấu tranh của ông Trần Xanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét